“Việt Bắc” được ví như “khúc tình ca” của dân tộc giữa những ngày kháng chiến chống Pháp thắng lợi vinh quang. Sau tất cả những thăng trầm, sau gần 9 năm kiên cường đánh đuổi giặc ngoại xâm, sau bao hy sinh, mất mát, những con người nằm xuống, Việt Nam ta đã hoàn thành “sứ mệnh” thiêng liêng cao cả, trao trả cho đồng bào niềm hiển vinh to lớn. Dù sau đó, dân ta phải đối mặt với đế quốc Mỹ, nhưng chiến thắng Điện Biên Phủ chính là mốc son chói lọi trong trang sử dân tộc.

Còn nhớ, ngày 13/3/1954, ta bắt đầu tấn công Điện Biên Phủ, và

 

“Sau 56 ngày đêm khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt

Máu trộn bùn non

Gan không núng, chí không mòn”

Trưa ngày 7/5/1954, ta đã giành thắng lợi vẻ vang:

“Chín năm làm một Điện Biên

Nên vành hoa đỏ, nên thiên sử vàng”

(Tố Hữu)

Những nụ cười, giọt nước mắt, biết bao người mẹ vừa hạnh phúc, vừa nghẹn ngào vì con trai mình đã góp máu xương để non sông được độc lập, biết bao người vợ nhớ chồng, biết bao đứa trẻ được tự hào vì cha ông. 

“Đêm lịch sử, Điện Biên sáng rực

Tên đất nước, như huân chương trên ngực

Dân tộc ta, dân tộc anh hùng!”

(Hoan hô chiến sĩ Điện Biên – Tố Hữu)

Như một người thư ký trung thành, tận tụy của cách mạng, Tố Hữu luôn hướng ngòi bút của mình bắt kịp mọi khoảnh khắc của cuộc kháng chiến chống Pháp, bởi thế, ông được mệnh danh là “lá cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam”, luôn hiên ngang giữa bầu trời. Bác Hồ từng nói: “Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận.

Anh chị em nghệ sĩ cũng là chiến sĩ trên mặt trận ấy”, nhắc tới thơ ca chính trị không thể nào không nhắc tới nhà thơ Tố Hữu và “Việt Bắc” – tác phẩm đã chạm vào bao tâm khảm của biết bao thế hệ, sống cùng non sông đất Việt

1. Tác giả và phong cách sáng tác

– Tố Hữu (1920 – 2002) tên khai sinh là Nguyễn Kim Thành.

– Quê quán: làng Phù Lai (xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế). Tố Hữu sinh ra và lớn lên ở một vùng đất thơ mộng, trữ tình, còn lưu lại nhiều nét văn hóa dân gian với những làn điệu dân ca Nam Ai, Nam Bình, những câu mái nhì, mái đẩy và cả nền nhã nhạc cung đình Huế. Điều này đã tạo sự thuận lợi để Tố Hữu tiếp xúc với nền văn học dân gian.

– Tố Hữu sinh trưởng trong một gia đình nhà Nho nghèo, cả cha và mẹ đều say mê sưu tầm ca dao tục ngữ. Đây là điều kiện để phát triển hồn thơ Tố Hữu mang âm hưởng trữ tình, đậm đà tính dân tộc.

 Tố Hữu là nhà thơ lớn, là người tiên phong của nền thơ ca cách mạng Việt Nam, thơ ông luôn gắn bó với những chặng đường cách mạng của dân tộc. Phong cách thơ mang tính trữ tình chính trị vô cùng sâu sắc, hướng đến những cái tôi chung và lẽ sống lớn, tình cảm lớn, niềm vui lớn, cái tôi trong thơ của ông luôn nhân danh Đảng, cộng đồng dân tộc, những vần thơ ấy vừa giàu nhạc điệu lại mang tính dân tộc đậm đà.

– “Tố Hữu được mệnh danh là “ca sĩ” sớm nhất và cũng là “ca sĩ” lớn nhất trong bản “hợp ca” cách mạng. Sức hút lớn nhất của thơ Tố Hữu là chất men say của lý tưởng cách mạng, chất trữ tình ngọt ngào thương mến qua những vần thơ đậm đà tính dân tộc. Bài thơ “Việt Bắc” (10/1954) là khúc tình ca tha thiết mặn nồng của người cán bộ với quê hương cách mạng Việt Bắc, là bản hùng ca về cuộc kháng chiến chống Pháp.”

– Thơ Tố Hữu là những vần thơ thể hiện tiếng nói của dân tộc, của tâm hồn những con người gắn bó sâu sắc với sự nghiệp Cách mạng, với quê hương, đất nước. Trong những vần thơ ấy ta sẽ bắt gặp những tình cảm mến thương sâu sắc, trữ tình, xuất phát từ một trái tim trung thành với dân tộc và nhân dân, và tiêu hơn cả là bài thơ “Việt Bắc”.

2. Tác phẩm

2.1. Hoàn cảnh ra đời

– Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ (7/5/1954), Hiệp định Giơnevơ được kí kết, hòa bình được lập lại, một trang sử mới của đất nước và một giai đoạn mới của cách mạng được mở ra. Tháng 10 năm 1954, các cơ quan của Trung ương Đảng và Chính phủ rời khỏi chiến khu Việt Bắc, nơi đã che chở, nuôi dưỡng cho Cách mạng suốt những năm trường kỳ chống thực dân Pháp trở về Hà Nội.

– Cuộc sống thay đổi có tính chất bước ngoặt: từ chiến tranh sang hòa bình, từ núi rừng về thành thị. Biết bao lưu luyến ân tình với nơi đã từng đồng cam cộng khổ, với những người đã từng “chia ngọt sẻ bùi”. Người ra đi không khỏi bâng khuâng thương nhớ, người ở lại cũng không khỏi bịn rịn, trống trải, bùi ngùi.

Nhân sự kiện có tính chất thời sự và lịch sử ấy, Tố Hữu – một cán bộ của Đảng, một nhà thơ lớn của Cách mạng đã sáng tác bài thơ “Việt Bắc” vào tháng 10 năm 1954. Bài thơ đã có vinh dự được lấy tên chung cho cả tập thơ “Việt Bắc” (1946 – 1954) – một đỉnh cao của thơ Tố Hữu và cũng là một tác phẩm xuất sắc thơ Việt Nam thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp. 

Lưu ý: Có thể tóm tắt hoàn cảnh ra đời một cách ngắn gọn như sau:

Tố Hữu – một hồn thơ dân tộc, một nhà thơ lớn trong nền văn học Việt Nam. Có thể nói những tác phẩm của ông không chỉ thể hiện tư tưởng, lẽ sống của bản thân mình mà qua đó ta còn thấy được những sự kiện quan trọng của Cách mạng nước nhà. Tháng 10 năm 1954, sau chiến thắng Điện Biên Phủ, bộ đội ta phải chuyển lực lượng về thủ đô và chia tay với chiến khu Việt Bắc.

Kẻ ở người đi lòng không khỏi nhớ thương tiếc nuối tình quân dân trong mười lăm năm kháng chiến, nhân sự kiện trọng đại này, cùng với tâm trạng nỗi niềm ấy, Tố Hữu đã viết bài thơ Việt Bắc.

Hoặc:

Ra đời trong một hoàn cảnh lịch sử hào hùng của dân tộc, sau chiến thắng Điện Biên Phủ, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, Thủ đô Hà Nội rợp bóng cờ hoa trong ngày hội non sông, bài thơ “Việt Bắc” ra đời là tiếng hát nghĩa tình, son sắt, thủy chung của mình với ta, của chiến sĩ, cán bộ, đồng bào đối với chiến khu Việt Bắc với Cách mạng và kháng chiến, đối với Đảng và Bác Hồ của miền xuôi và miền ngược, là khúc tình ca của một dân tộc anh hùng

Đoạn trích trong SGK:

– Bài thơ Việt Bắc có 2 phần, gồm 150 câu thơ.

– Phần thơ trong SGK là đoạn mở đầu và phần một gồm 90 câu – phần đặc sắc hơn cả của bài thơ Việt Bắc. Đoạn trích là hai đoạn hoài niệm về một Việt Bắc gian khổ, vẻ vang của Cách mạng và kháng chiến, nay đã trở thành kỉ niệm sâu nặng khôn nguôi trong lòng người. Toàn phần trích giảng thông qua nỗi nhớ da diết, thể hiện nghĩa tình cách mạng, tình cảm thủy chung son sắt của người cán bộ về xuôi đối với quê hương Việt Bắc

2.2. Thể thơ

Bài thơ “Việt Bắc” được viết theo thể thơ lục bát, tạo nên âm hưởng nhẹ nhàng, trầm bổng mà lắng sâu trong lòng người đọc. Đây chính là một sự khéo léo tạo nên thành công của bài thơ chính trị mà trữ tình, dạt dào cảm xúc này.

“Việt Bắc” vận dụng lối hát giao duyên đối đáp nam nữ của dân ca, vì vậy thường sử dụng lối xưng hô thân mật rất quen thuộc là mình – ta. “Ta” thường dùng ở ngôi thứ nhất. “Mình” thường dùng ở ngôi thứ hai. Tùy theo văn cảnh, ta và mình có thể là Việt Bắc hay người cán bộ về xuôi. Nhưng nhiều lúc lẫn lộn, tuy hai mà một vì mình hay ta cũng đều là người cách mạng, cũng đều là ân tình sâu nặng với nhau “tuy hai mà một”.

Dù là kết cấu đối đáp, nhưng ở Việt Bắc không chỉ là lời nói, lời đáp mà còn là sự hô ứng, đồng vọng của cùng một tâm trạng. Lời đáp, ngoài việc trả lời cho những câu hỏi, còn là sự mở rộng, làm phong phú thêm cho những ý tình đã được gợi ra trong lời hỏi. Cũng có khi cả lời hỏi và lời đáp đã trở thành lời đồng vọng ngân vang lên những tình cảm chung.

Nếu nhìn sâu hơn vào kết cấu của bài thơ, chúng ta thấy được đối thoại chỉ là lớp vỏ ngoài còn ở chiều sâu bên trong chính là lời độc thoại. Hình thức độc thoại là khả năng phân thân của cái “tôi” trữ tình để hóa thân vào đối tượng, khiến tâm trạng được thể hiện sâu sắc dễ lay động lòng người hơn. 

2.3. Đại ý – ý nghĩa bài thơ Việt Bắc

Việt Bắc là bài thơ trữ tình đằm thắm thiết tha thể hiện ân tình sâu nặng thủy chung của tác giả – người cán bộ sắp rời Việt Bắc về miền xuôi – đối với căn cứ địa Cách mạng của cả nước. Đây không chỉ là tình cảm riêng của nhà thơ mà đồng thời cũng là tâm trạng chung của mọi người. Bài thơ này tiêu biểu cho những suy nghĩ, tình cảm cao đẹp của những con người kháng chiến đối với miền đất quê hương Cách mạng, với đất nước và nhân dân, với kháng chiến và Cách mạng.

Cũng có thể nói đây là khúc hát tâm tình thủy chung không những của con người kháng chiến, của nhân dân ta mà còn của truyền thống ân nghĩa, thủy chung của dân tộc  hòa vào, tiếp nối và khơi sâu thêm nét truyền thống cao đẹp đó.

Việt Bắc dựng ra một hoàn cảnh đặc biệt để bộc lộ những cảm xúc trữ tình dào dạt. Đó là một cuộc chia tay đầy lưu luyến giữa kẻ ở, người đi, giữa Việt Bắc với cán bộ về xuôi bâng khuâng và bịn rịn. Đó cũng là cuộc chia tay của những người đã từng gắn bó sâu nặng với nhau, cùng nằm gai nếm mật, chia ngọt sẻ bùi. Giờ đây, trong phút giây chia tay, họ cùng nhau gợi lại bao kỉ niệm về những ngày tháng đã qua. Họ khẳng định nghĩa tình bên chặt và hẹn ước về một ngày mai tươi sáng. 

3. Đọc – hiểu văn bản

3.1. Cảm nhận chung về đoạn thơ

– Đoạn thơ đã tái hiện được khí của cuộc chia tay đầy lưu luyến bịn rịn sau 15 năm gắn bó ân tình giữa kẻ ở người đi. Đó là không khí ân tình của hồi tưởng, hoài niệm của ước vọng và tin tưởng. 

– Kết cấu: Theo lối đối đáp quen thuộc của ca dao dân ca. Không đơn thuần là lời hỏi – đáp mà là sự hô ứng đồng vọng, là sự độc thoại nội tâm, đó là cách “phân thân”, “hóa thân” để bộc lộ tâm trạng phong phú hơn.

– Giọng điệu: Ngọt ngào êm ái, giọng tâm tình thủ thỉ

3.2. Cuộc chia tay và tâm trạng của kẻ ở người đi

a. Tâm trạng khi chia tay của kẻ ở người đi (8 câu thơ đầu)

4 câu thơ đầu

Thơ là sự giãi bày đời sống tình cảm, “là tiếng nói đầu tiên, tiếng nói thứ nhất của tâm hồn khi đụng chạm đến cuộc sống” (Nguyễn Đình Thi). Tình cảm ấy là những trạng thái cảm xúc mà người nghệ sĩ từng trải qua, từng sống trong những cung bậc ấy. Thơ không chấp nhận thứ tình cảm hời hợt, mờ nhạt. Nếu nhà thơ không viết thơ bằng nước mắt, bằng máu của chính mình, không sâu sắc với những tình cảm của con người thì thơ sẽ thiếu sức sống, chỉ có thể làm được những bài thơ vô hồn, chỉ là những câu chữ hoa mĩ được ép khô trên giấy.

Tố Hữu đã viết “Việt Bắc” bằng cảm xúc bâng khuâng, da diết khi phải chia tay đồng bào Việt Bắc với biết bao kỉ niệm ngọt bùi khó quên của một thời gắn bó. Hình thức là đối đáp giữa kẻ ở – người đi nhưng thực chất là lời độc thoại nội tâm, đắm mình trong hoài niệm quá khứ của tác giả. 

Trong cuộc chia tay giữa đồng bào Việt Bắc với những người chiến sĩ Cách mạng về xuôi, người ở lại là những người lên tiếng trước bởi họ đã nhạy cảm nhận ra sự thay đổi của hoàn cảnh nên bồn chồn, lo lắng không yên. Trong âm hưởng ngọt ngào của ca dao, những câu hỏi của người ở lại cất lên như chất chứa bao nỗi niềm vấn vương, lưu luyến:

“Mình về mình có nhớ ta

Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng

Mình về mình có nhớ không

Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn”

Mười lăm năm gợi ra hành trình từ những ngày đầu Cách mạng với cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn năm 1940 và sự kiện năm 1941, sau những năm bôn ba khắp năm châu bốn bể tìm đường cứu nước, Bác Hồ đã trở về Tổ Quốc, người chọn Việt Bắc làm căn cứ địa Cách mạng:

“Ôi sáng xuân nay, xuân 41

Trắng rừng biên giới nở hoa mơ

Bác về. Im lặng. Con chim hót

Thánh thót bờ lau vui ngẩn ngơ.”

Nhà thơ đã sử dụng sáng tạo hai đại từ “mình – ta” vốn là cách xưng hô lứa đôi quen thuộc trong ca dao với biết bao tình cảm mến thương dạt dào:

“Mình về có nhớ ta chăng

Ta về ta nhớ hàm răng mình cười.”

Hay 

“Mình về ta chẳng cho về

Ta nắm vạt áo ta đề câu thơ.”

Tố Hữu đã mượn hình thức quen thuộc của văn học dân gian để thể hiện một vấn đề có tính chất lịch sử. Từ những câu ca ngọt ngào của tình yêu đã trở thành “khúc tâm tình” của kẻ ở – người đi, từ cách xưng hô lứa đôi trở thành tiếng gọi thân thương của những ngươi đồng chí, đồng bài khiến cho tình cảm trở nên đẹp đẽ, gắn bó. 

Với biện pháp điệp ngữ “mình có nhớ ta”, “mình có nhớ không” đã tạo nên giọng thơ đầy lưu luyến, thể hiện sự day dứt, bịn rịn, băn khoăn của người ở lại và cả nỗi lo sợ người ra đi sẽ không giữ được tình cảm thủy chung với Việt Bắc. Đó đồng thời là lời nhắn ngủ với người ra đi đừng bao giờ quên quê hương nghĩa tình cách mạng với những kỉ niệm mặn nồng keo sơn. 

“Mười lăm năm ấy ai quên

Quê hương Cách mạng dựng nên Cộng hòa.”

Sau những câu hỏi ấy, người ở lại đã khơi gợi những kỉ niệm khó quên ở Việt Bắc với thời gian “mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”. Mười lăm năm ấy đủ đong đầy bao nghĩa tình sâu nặng như phảng phất âm hưởng của thơ Kiều:

“Những là rày ước mai ao

Mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình.”

Đó là khoảng thời gian “Từ khi kháng Nhật thuở còn Việt Minh”, là những ngày tháng mà đồng bào Việt Bắc đã cưu mang cán bộ. Họ đã từng gian khổ có nhau, đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi, thủy chung gắn bó. Mười lăm năm vào sinh ra tử với biết bao kỷ niệm chiến đấu, bao ân tình đằm thắm khó quên.

Không chỉ nhớ về thời gian, người ở lại như muốn người ra đi nhớ về không gian Việt Bắc, thủ đô gió ngàn, căn cứ địa Cách mạng “nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”. Nhớ núi, nhớ nguồn là nhớ về khung cảnh thiên nhiên, nhớ về quê hương Cách mạng, ngọn nguồn của Cách mạng, đó không chỉ là không gian vô hồn mà đã trở nên rất đỗi thân quen, in dấu từng bước chân, lưu giữ bao kỉ niệm. Câu thơ vừa có tình cảm lưu luyến, hụt hẫng trong lòng người ở lại vừa như lời dặn dò kín đáo với người ra đi đừng quên đạo lí “uống nước nhớ nguồn”. 

“Ngọt bùi nhớ lúc đắng cay

Ra sông nhớ suối, có ngày nhớ đêm.”

(Tố Hữu)

4 câu thơ sau

“Thơ là điệu hồn đi tìm những hồn đồng điệu”, là tiếng nói đồng vọng của những trái tim, những tâm hồn tri âm. Nhà thơ Tố Hữu như đã thấu cảm được sự đồng vọng tha thiết của kẻ ở – người đi qua kết cấu đối đáp ngọt ngào, ân tình. Sau những câu hỏi của người ở lại, người ra đi chỉ im lặng lắng nghe, chỉ biết cầm tay nghẹn ngào không nói nên lời:

“Tiếng ai tha thiết bên cồn

Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi”

Đại từ phiếm chỉ “ai” gợi ra bao nhiêu cảm xúc, “ai” nghĩa rằng không biết rõ là ai đang tha thiết, nó hiển hiện trong mỗi con người ở lại, của cả nhân dân Việt Bắc chứ không của một cá nhân nào. Tiếng dân cứ tha thiết gợi về biết bao bịn rịn, để rồi người ra đi cứ “bâng khuâng trong dạ”, chân bước đi mà lòng cứ bồn chồn không yên, đau đáu nhìn lại. Hai từ láy “bâng khuâng”, “bồn chồn” không chỉ tạo ra tính nhạc cho lời thơ mà còn diễn tả tâm trạng luyến tiếc, nhớ thương, ngập ngừng, bịn rịn, không thể chia tay, không thể dứt khoát để về xuôi. 

Giữa khung cảnh buổi chia tay, nếu “tiếng ai” là âm thanh mơ hồ, là tiếng vọng trong tâm tưởng, thì hình ảnh “áo chàm” lại thật cụ thể, không thể xóa nhòa trong tâm tưởng người ra đi.

“Áo chàm đưa buổi phân li

Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay.”

“Áo chàm” là hoán dụ cho nhân dân Việt Bắc, bởi đây là trang phục dân tộc quen thuộc nơi vùng cao. Áo chàm là màu áo bền bỉ, khó phai, bình dị, đơn sơ, mộc mạc của một vùng quê nghèo khổ mà nghĩa tình. Đây là màu áo đặc trưng của người dân Việt Bắc, những con người tuy vất vả lam lũ nhưng vẫn một lòng son sắt với Cách mạng và kháng chiến. Với hình ảnh áo chàm, nhà thơ đã gợi lên hình ảnh của toàn thể những người dân Việt Bắc đã có mặt trong buổi tiễn biệt người chiến sĩ Cách mạng về xuôi.

Có biết bao nỗi niềm, cảm xúc nhưng người ra đi lại chẳng “biết nói gì hôm nay”. Họ im lặng khi mọi lời đều bất lực, khi có rất nhiều điều muốn nói nhưng lại không thể nói hết, nói trọn vẹn những nỗi niềm đang trào dâng mãnh liệt. Người ra đi im lặng bởi xúc động, nghẹn ngào không nói nên lời, bởi sự bâng khuâng bịn rịn. Và hơn hết, họ im lặng để tri ân, thấu hiểu, để lời người ở lại ngân vang và thấm sâu vào tâm hồn.

Câu thơ cuối được ngắt nhịp 3/3/2 diễn tả sự ngập ngừng, lưu luyến lúc chia tay. Và tất cả tình cảm người ra đi gửi gắm qua hành động “cầm tay”. Cái cầm tay không lời nous lại chất chứa bao nhiêu điều muốn nói. Trong bài thơ “Đồng chí”, nhà thơ Chính Hữu đã từng viết “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.” Đó là những hành động đã trở thành ngôn ngữ giao tiếp đặc biệt, thể hiện những cảm xúc trong lòng người.

Cái cầm tay của người ra đi đã khẳng định tình cảm mãi thủy chung với Việt Bắc vừa để củng cố niềm tin cho người ở lại, động viên tinh thần giúp họ vượt lên hoàn cảnh. Cầm tay bởi sự vấn vương, xúc động khó dứt, và dường như đó là hành động thay cho lời tạm biệt, thay cho lời hứa sẽ mãi bền lòng, vững tâm với vùng đất và con người nơi đây. Trong bài thơ “Hơi ấm bàn tay”, Lưu Quang Vũ cũng có những câu thơ rất tình:

“Điều chưa nói thì bàn tay đã nói

Mình đi rồi hơi ấm còn ở lại

Còn bồi hồi trong những ngón tay ta.”

Phút cầm tay của tình quân dân hay tình yêu đôi lứa, dù thế nào cũng là những phút giây để nhớ thương:

“Khi cách nhau hàng vạn dặm không gian

Anh mới hiểu khoảng cách không đáng sợ

Anh thấy em bên mình, như nghe từng nhịp thở.”

Tin rằng, với “mình” và “ta”, họ cũng thấy nhau bên mình, “nghe từng nhịp thở”, bởi hồi ức mười lăm năm chẳng ít ỏi để lãng quên, huống chi là hồi ức về những tháng ngày kiêu hùng của dân tộc. Mượn thơ tình của Lưu Quang Vũ để nói về thơ trữ tình chính trị của Tố Hữu thật không cân bằng, nhưng trữ tình trong tình thương giữa con người với con người, với tình yêu, cũng cùng những cung bậc gần biết mấy!

Nếu những câu thơ đầu hiện lên với từ “tha thiết”, thì đến đây ta lại nghe “tha thiết”, cảm xúc của kẻ ở người đi dành cho nhau quyện hòa nồng thắm. Nhà thơ đã sử dụng thật tinh tế hệ thống từ láy dồn dập, làm nổi bật những cảm xúc đang dâng trào,

Đọc tám câu thơ của Tố Hữu, cảm nhận “buổi phân li” thắm đượm ân tình, ta bỗng nhớ đến câu thơ trong cảnh Thúc Sinh từ biệt Thúy Kiều:

“Người lên ngựa, kẻ chia bào

Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san”

Cuộc phân ly nào cũng buồn da diết đến thế, nhưng tình người, tình yêu vẫn thắm đượm đong đầy. 

b) Nỗi nhớ da diết mênh mang với nhiều sắc thái và cung bậc khác nhau 

Nhà thơ Tagore từng bày tỏ: “Ngọn gió nhà thơ băng qua rừng, băng qua biển để tìm ra tiếng nói của riêng mình.” Tố Hữu được xem là nhà thơ lớn của dân tộc, sớm giác ngộ Cách mạng, hăng say tham gia kháng chiến, dùng ngòi bút để phục vụ cuộc chiến đấu của dân tộc. Và Tố Hữu đã tìm cho mình một lối đi riêng, đó là lối thơ đậm đà tính dân tộc, mang khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn với giọng điệu ngọt ngào, tha thiết. 

Trong lời nhắn nhủ của người ở lại qua mười hai câu thơ tiếp theo, tác giả không chỉ thể hiện nỗi trăn trở, lo lắng, băn khoăn của người ở lại mà còn khắc họa vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên, com người Việt Bắc mang đậm màu sắc dân tộc:

“Mình đi có nhớ những ngày

Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù.”

Thiên nhiên Việt Bắc hiện ra với sự khắc nghiệt, dữ dội, hiểm nguy trong những hình ảnh “mưa nguồn”, “suối lũ”, “những mây cùng mù”. Nắng lắm, mưa nhiều, lũ quét, đất lở và quanh năm mây mù bao phủ.

Bao nhiêu trở ngại, gian khổ đã được nhà thơ khắc họa qua những ấn tượng cụ thể, sinh động. Đó cũng chính là môi trường kháng chiến nhiều khó khăn, thử thách mà quân và dân ta đã gắn bó trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.

Không những thiên nhiên khắc nghiệt mà cuộc sống ở đây lại càng thiếu thốn hơn. Người ở lại như muốn gợi nhắc để người ra đi nhớ về những ngày tháng gian khổ, những con người Việt Bắc như nhớ về một nơi thân thương nhất:

“Mình về có nhớ chiến khu

Miếng cơm chấm muối mối thù nặng vai” 

“Mình đi có nhớ những ngày

Hắt hiu lau xám đậm đà lòng son.”

Hình ảnh thơ xúc động đã diễn đạt theo hình thức tiểu đối nhấn mạnh hồi ức về những ngày “miếng cơm chấm muối”. Nhưng trong gian khổ thử thách, Cách mạng với nhân dân cùng đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi. Họ đoàn kết sánh vai vì mục đích lý tưởng chung, luôn nung nấu “mối thù nặng vai”.

Khung cảnh Việt Bắc hoang vu, vắng lặng và cuộc sống nghèo nàn “hắt hiu lau xám” nhưng con người luôn có một lòng thủy chung sâu sắc. Họ là những con người bình dị, thầm lặng nhưng đã hi sinh và cống hiến hết mình cho Cách mạng, luôn gắn bó với Cách mạng từ những ngày đầu kháng chiến:

“Mình về còn nhớ núi non

Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh

Mình đi mình lại nhớ mình

Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa”

Đây là kỉ niệm sâu sắc về thời kỳ gian khó khi Việt Bắc trở thành cái nôi của Cách mạng, là căn cứ địa quan trọng của Việt Minh. Đó là những ngày tháng đầy mất mát, hy sinh song cũng thật hào hùng của dân tộc. Nếu “Tân Trào”, “Hồng Thái” là địa danh lịch sử trọng đại, là nơi họp QUốc dân Đại hội và là nơi làm lễ xuất quân của đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, thì “mái đình”, “cây đa” lại là những hình ảnh thật bình dị, quen thuộc của làng quê Việt Nam, là không gian sinh hoạt cộng đồng, giao lưu, hò hẹn. Điều này cho thấy sự gắn bó sâu sắc của người dân Việt Bắc với Cách mạng, tình cảm họ dành cho Cách mạng cũng gần gũi, thân quen như tình làng, nghĩa xóm.

Những câu hỏi ấy không chỉ gợi lại thời gian kháng chiến, nhắc lại không gian lịch sử mà còn gợi lại những kỉ niệm chiến đấu cùng kề vai sát cánh, vào sinh ra tử với lòng căm thù giặc sâu sắc và ý chí quyết tâm cao độ. Chính điều này đã phản ánh vẻ đẹp phẩm chất của người ở lại – người dân Việt Bắc.

Những câu hỏi đều hướng đến người ra đi nhưng cũng có lúc người ở lại hỏi chính lòng mình:

“Mình về rừng núi nhớ ai

Trám bùi để rụng, măng mai để già”

“Rừng núi” là hình ảnh hoán dụ để nói về những người dân Việt Bắc, những người ở lại đang “nhớ ai”, thấy vấn vương, hụt hẫng trong lòng khi phải chia tay những người đã từng gắn bó. Câu thơ đã nói lên sự trống vắng, cô đơn, nỗi nhớ thương của người ở lại khi mỗi người mỗi phương trời xa xôi. Họ lấy sản vật của núi rừng để nuôi cán bộ, “trám bùi”, “măng mai” để hoài niệm quá khứ gian khổ và thấm thía nỗi buồn xa cách ở hiện tại. 

3.3. 70 câu thơ tiếp theo: Lời đáp của người ra đi

a) Bốn câu đầu

Sau rất nhiều câu hỏi của người ở lại, những người ra đi trả lời liền mạch qua bảy mươi dòng thơ như những cảm xúc bị dồn nén, chất chứa ở trong lòng nay tuôn trào và cuộn chảy. Người ra đi đã khẳng định tình cảm thủy chung, bền vững với Việt Bắc:

“Ta với mình, mình với ta

Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh

Mình đi mình lại nhớ mình

Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu.”

Đại từ “mình”, “ta” được sắp xếp thành “ta – mình”, “mình – ta” tạo cảm giác gắn bó, hòa quyện, khăng khít thể hiện tình cảm trọn vẹn trước sau như một. “Đinh ninh” là sự khẳng định chắc chắn và sẽ mãi thủy chung với mảnh đất và con người Việt Bắc.

Nếu người ở lại đã từng băn khoăn tự hỏi “mình đi mình có nhớ mình”, thì người ra đi đã hồi đáp như lời khẳng định son sắt “Mình đi mình lại nhớ mình”. Từ “mình” thứ ba để chỉ cả người ở lại cả người ra đi. Những người ra đi không thể nào quên được Việt Bắc, quê hương của Cách mạng cũng là nơi từng gắn bó sâu nặng.

b) Nỗi nhớ của người ra đi

“Nhớ gì như nhớ người yêu

… 

Chày đêm nện cối đều đều suối xa”

Thơ ca là tiếng nói của nhịp đập con tim, là tiếng nói của cảm xúc, tình cảm. “Thơ là nơi duy nhất để giải phóng tôi và để tôi trú ẩn” (Nguyễn Quang Thiều). Người đọc tìm đến thơ như những tâm hồn thứ hai của mình, không chỉ để cảm nhận được vẻ đẹp của thiên nhiên, cuộc sống mà còn tìm được tiếng nói tri ân với tác giả.

Trong bài thơ “Việt Bắc” ta cảm nhận được tình cảm tha thiết, sâu nặng của thi nhân, của những người kháng chiến với đồng bào Việt Bắc trong khoảnh khắc chia tay đầy lưu luyến, bịn rịn. Đó là nỗi nhớ về một thời kì gian khổ nhưng “đậm đà lòng son”, nỗi nhớ ào ạt như thác lũ, vang vọng ngân nga, dội vào vách núi và dội vào trái tim người đọc.

Bài thơ Việt Bắc triển khai theo lối kết cấu đối đáp giữa kẻ ở người đi thật tự nhiên, khéo léo. Những câu hỏi gợi nhắc của người ở lại đã khơi nguồn biết bao kỉ niệm ùa về. Kỷ niệm kết nối kỉ niệm, kí ức gọi ký ức.

Tất cả bỗng thức dậy và chảy trong mạch cảm xúc dạt dào tưởng chừng như không bao giờ vơi cạn. Có thể nói, nhớ thương đã trở thành điệp khúc, lực hấp dẫn để hút về tất cả kí ức hoài niệm của một thời gắn bó.

Nỗi nhớ về thiên nhiên Việt Bắc

Mở đầu cho bản tình ca nỗi nhớ ấy là một giai điệu ngọt ngào, say đắm của tình yêu:

“Nhớ gì như nhớ người yêu”

Tình yêu luôn đi kèm với nỗi nhớ khi xa cách. Đó là nỗi nhớ da diết, thường trực, ám ảnh và vô cùng mãnh liệt.

“Nhớ ai bổi hổi bồi hồi

Như đứng đống lửa như ngồi đống than.”

Hay đó là nỗi nhớ cồn cào đến mức phi lý như trong cảm nhận của Xuân Diệu:

“Uống xong lại khát là tình

Gặp rồi lại nhớ là mình với ta.”

Hoặc như Tố Hữu cũng đã từng rất ngạc nhiên:

“Lạ chưa vẫn ở bên em

Mà anh vẫn nhớ vẫn thèm gặp em.”

Với hình ảnh so sánh đầy ngọt ngào, thấm thía, Tố Hữu khiến cho nỗi nhớ của người ra đi với đồng bào Việt bắc cũng giống như nỗi nhớ của hai người yêu nhau, da diết, sâu lắng, cồn cào như nỗi nhớ trong tình yêu. Điệp từ “nhớ” càng khiến cho nỗi nhớ trở nên khắc khoải, khôn nguôi như những đợt sóng lòng trào dâng mãnh liệt.

Sau câu thơ mang hơi thở của tình yêu, cả một không gian núi rừng Việt Bắc trải dài đã hiện lên mộc mạc, thân quen mà thi vị, lãng mạn như không gian của tình yêu đôi lứa. 

“Trăng lên đầu núi nắng nắng chiều lưng nương

Nhớ từng bản khói cùng sương

Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.”

Thiên nhiên Việt Bắc trở về trong nỗi nhớ của người ra đi là những đêm trăng bàng bạc thấp thoáng nơi đầu núi. Ánh trăng trở thành người bạn của con người, những người cán bộ kháng chiến. Không gian núi rừng trở nên lung linh, hữu tình nhờ có ánh trăng soi chiếu.

Đó còn là ấn tượng về những buổi chiều ánh nắng trải dài khắp các lưng nương, hòa lẫn với màu xanh bạt ngàn của núi rừng, tạo ra một bức tranh rất đặc trưng nơi Việt Bắc. Ánh nắng nhẹ nhàng, phảng phất mà lan tỏa, hòa quyện, gắn bó đến kỳ lạ.

Không thể nào quên ở Việt Bắc là những bản làng ngập chìm trong sương khói, vừa mơ hồ, huyền ảo, vừa thanh bình, yên ả lại vừa thân thương, gợi nhớ. Những ngôi nhà thoắt ẩn, thoắt hiện trong màn sương mù bao phủ cùng với hình ảnh “người thương đi về” tần tảo sớm hôm đã tạo ra linh hồn, sức sống cho bức tranh thiên nhiên. Nếu câu thơ đầu họ như “người yêu” thì giờ đây đã trở thành “người thương” trong lòng người ra đi, gần gũi, gắn bó với nhau như những người thân ruột thịt.

Đây chính là những con người đã che chở, cưu mang cán bộ trong suốt một thời gian dài gian khó. Và nhịp sống giản dị, đời thường của không gian nơi đây được tái hiện qua hình ảnh bếp lửa chập chờn trong đêm đông lạnh giá như xua tan đi cái lạnh lẽo của núi rừng và sưởi ấm tâm hồn con người.

Trong ký ức của người ra đi còn dội lại bao địa danh đong đầy kỷ niệm: Ngòi Thia,  sông Đáy, suối Lê và cả “rừng nứa”, “bờ tre” quen thuộc, gắn bó.  Đây là những ấn tượng rất riêng chỉ có ở Việt Bắc. Gọi lại địa danh là gọi lại kỉ niệm về nghĩa tình Cách mạng, kháng chiến làm cho kỉ niệm sống lại vẹn nguyên, đủ đầy.

Với những hình ảnh liệt kê, khiến cho người đọc cảm nhận rõ hơn về nỗi nhớ da diết, miên man, không dứt, hết đợt này đến đợt khác như một cuốn phim quay chậm để rồi lắng đọng trong tâm trí người ra đi là tình cảm chân thành không thể nào quên. 

Nỗi nhớ về cuộc sống, con người 

“Vạt áo của triệu nhà thơ không bọc hết hạt vàng mà đời rơi vãi

Hãy nhặt lấy chữ của đời mà góp nên trang.”

(Chế Lan Viên)

Đó là sứ mệnh thiêng liêng của mỗi nhà thơ, phải mở rộng hồn mình để đón nhận những vang động của đất trời, bén rễ vào mảnh đất mang tên hiện thực đời sống. Văn chương được nuôi dưỡng từ bà mẹ cuộc sống để trở lại làm đẹp cho đời, bồi đắp cho tâm hồn con người. Những trang thơ của Tố Hữu đã “nhặt lấy chữ của đời” để viết nên những tác phẩm chân thực như những trang đời có sức lay động bao thế hệ người đọc.

Trong tiềm thức của người ra đi, không chỉ có nỗi nhớ về bức tranh thiên nhiên thơ mộng, gần gũi nơi Việt Bắc mà còn là nỗi nhớ về hiện thực cuộc sống và những con người nghĩa tình nơi đây:

“Ta đi ta nhớ những ngày

Mình đây ta đó đắng cay ngọt bùi.”

Đó là câu trả lời của những người ra đi cho câu hỏi đầy thấm thía, xúc động của người ở lại trước khi chia tay “mình đi có nhớ những ngày”. Nhớ “những ngày” đó là những ngày cùng gắn bó, sẻ chia ngọt bùi được gói ghém từ những ngày “kháng Nhật, thuở còn Việt Minh”, trong “mười lăm năm thiết tha mặn nồng” với “bát cơm chấm muối, mối thù nặng vai”. “Mình đây ta đó” tất cả như còn hiện hữu vẹn nguyên với bao “ngọt bùi” cùng hưởng, “đắng cay” cùng chịu trong nỗi nhớ da diết, mênh mang. 

Hồi ức về cuộc sống của những năm tháng chiến tranh ác liệt, đầy gian khổ nơi Việt Bắc đã được nhà thơ Tố Hữu tái hiện qua thước phim quay chậm như một cuốn sách lịch sử bằng thơ:

“Thương nhau chia củ sắn lùi

Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng.”

“Sắn lùi”, “bát cơm sẻ nửa”, “chăn sui” là những hình ảnh hiện thực cụ thể phản ánh một cuộc sống vô cùng thiếu thốn, khó khăn, gian khổ. Nơi đây không chỉ có mưa bom bão đạn của kẻ thù mà còn có cả bệnh tật, đói rét, khổ cực, gian khó. Nhưng cũng chính từ trong đói khổ, thiếu thốn đó lại nhen nhóm lên tình nghĩa gắn bó giữa đồng bào Việt Bắc với những người lính kháng chiến.

Một củ sắn lùi cũng chia nhau, bát cơm sẻ nửa để làm ấm lòng nhau và một chiếc chăn sui đắp cùng để sưởi ấm  cho nhau trong đêm đông lạnh giá. Họ không chỉ vượt qua thử thách bằng lòng dũng cảm mà còn bằng tình yêu thương, bằng sức mạnh của tinh thần đoàn kết. 

“Thơ cần hình cho người ta thấy”, đó không chỉ là hình ảnh của thiên nhiên mà còn là những hình ảnh quen thuộc của cuộc sống con người nơi đây:

“Nhớ người mẹ nắng cháy lưng

Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô.”

Trong thơ Tố Hữu, hình ảnh người mẹ luôn là nguồn cảm hứng vô tận, những người mẹ Việt Nam anh hùng, kiên trung song cũng rất tần tảo, chịu thương, chịu khó và giàu đức hi sinh. Đó là hình ảnh mẹ Tơm:

“Con đã về đây ơi mẹ Tơm

Hỡi người mẹ khổ đã dành cơm

Cho con, cho Đảng ngày xưa ấy

Không sợ tù gông, chấp súng gươm.”

Hay đó là hình ảnh của “Bầm ơi”

“Bầm yêu con, yêu luôn đồng chí

Bầm quý con, bầm quý anh em.”

Hình ảnh người mẹ Việt Bắc cũng là hiện thân cho những bà mẹ Việt Nam, cần cù lam lũ mà vẫn không sờn lòng, nản chí trong đấu tranh. Trong cái nắng chói chang, mẹ vẫn nhẫn nại bền bỉ bẻ từng bắp ngô, cõng con cõng cả nắng trời cháy lưng.

Giữa cái khắc nghiệt, mênh mông của thiên nhiên “nắng cháy lưng”, mẹ vẫn “địu con lên rẫy”, miệt mài với công việc lao động, âm thầm lặng lẽ cống hiến cho cuộc Cách mạng, che chở, cưu mang cán bộ. Đằng sau hình ảnh người mẹ, ta cảm nhận được niềm thương cảm và cả sự cảm phục, tri ân của nhà thơ và những người kháng chiến với những con người lao động rất bình dị mà vô cùng cao cả.

Nỗi nhớ về những sinh hoạt tập thể nơi chiến khu Việt Bắc

Những kỉ niệm kháng chiến, những sinh hoạt mang tính tập thể ở căn cứ địa Việt Bắc thực sự đã trở thành một phần kí ức sâu đậm trong lòng người ra đi. Vẫn mang dòng chảy của những hoài niệm, nhưng những kỉ niệm về lớp học xóa mù chữ, những buổi liên hoan tại chiến khu mang lại màu sắc tươi vui, náo nức:

“Nhớ sao lớp học i tờ

Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan.”

Điệp ngữ “nhớ sao” nghe bâng khuâng, da diết như luyến tiếc hụt hẫng trong lòng người ra đi. Những cán bộ Cách mạng đến vùng cao đâu chỉ gây dựng kháng chiến mà còn gieo chữ nơi bản xa, đem ánh sáng văn hóa đến làng xóm. Những lớp học “i tờ” là hình ảnh quen thuộc của phong trào “bình dân học vụ”, xóa mù chữ cho đồng bào Việt Bắc và những người chiến sĩ lại trở thành thầy giáo tận tụy, giàu tình yêu thương. Tiếng đánh vần ê a, nét chữ còn vụng về nhưng những gương mặt vô cùng háo hức, say mê khi được học con chữ của Cách mạng, của Bác Hồ là ấn tượng không thể phai nhòa trong lòng người ra đi.

Cuộc sống nơi chiến khu không chỉ có niềm hạnh phúc chinh phục được tri thức mà còn đầy ắp niềm vui trong sinh hoạt tập thể. Ý thơ “đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan” gợi ta nhớ đến “doanh trại bừng lên hội đuốc hoa” trong “Tây Tiến” của Quang Dũng. Cuộc sống nơi chiến khu dẫu gian khổ nhưng luôn ấm áp, nghĩa tình, trái tim mỗi người luôn rực sáng niềm lạc quan tin tưởng:

“Nhớ sao ngày tháng cơ quan

Gian nan  đời vẫn ca vang núi đèo.”

Đời lính nhiều gian khổ song họ luôn lạc quan, yêu đời. Gác lại những mất mát, hy sinh nơi chiến trận, quên đi tiếng súng đạn, hiểm nguy, những người kháng chiến đã cùng với đồng bào Việt Bắc hòa nhịp vào đêm hội liên hoan trong ánh sáng lung linh, diệu kì của bó đuốc rực rỡ khắp núi rừng. Tinh thần trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi, phong trào “Tiếng hát át tiếng bom” thực sự thấm sâu vào nhận thức của mỗi người.

Những lời ca tiếng hát được vang lên rộn ràng, vui tươi như xua tan đi bao mệt nhọc, gian khổ, khơi gợi và thắp lên niềm tin mãnh liệt vào ngày mai chiến thắng. Đây chính là động lực để những người Cách mạng và đồng bào Việt Bắc vượt qua mọi thử thách, đẩy lùi mọi khắc nghiệt, hiểm nguy, sẵn sàng đối mặt với tất cả.

Khép lại những thước phim về cuộc sống chiến khu giản dị, nghĩa tình là âm thanh quen thuộc thân thương:

“Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều

Chày đêm, nện cối đều đều suối xa.”

Hai câu thơ như vọng lên khúc nhạc đồng quê, mỗi một âm thanh lại gợi mở bức họa bình dị mà yên ả, thơ mộng. Đó là tiếng mõ rừng chiều giục đàn trâu về trong niềm vui háp hức của đám trẻ mục đồng, là tiếng giã gạo đêm khuya bình dị mà ghi dấu bao nghĩa tình sâu nặng. Tiếng suối róc rách nơi rừng xa lại gợi cái trong ngần, thơ mộng của cảnh vật.

Lời thơ dứt mà âm thanh ấy cứ ngân vang mãi trong lòng người chia xa. Với điệp từ “nhớ” khiến cho cảm xúc của thi nhân như một dòng chảy mênh mông, bất tận, thấm sâu vào tâm hồn độc giả.

c) Bức tranh tứ bình

“Ta về mình có nhớ ta

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.”

“Thế giới được tạo lập không phải một lần, mà mỗi lần người nghệ sĩ độc đáo xuất hiện thì lại một lần thế giới được tạo lập” (Marcell Proust) Quả thật vậy! Tố Hữu đã mang theo một luồng gió mới đến cho nền thơ ca Cách mạng Việt Nam. Đó là một Tố Hữu với phong cách thơ trữ tình – chính trị với giọng điệu ngọt ngào tha thiết chân thành.

Từ một sự kiện chia tay mang tính lịch sử trở thành cuộc chia tay của hai người yêu nhau đầy luyến lưu bịn rịn. Bao cảm xúc dồn nén, bao nhiêu nỗi nhớ chất chồng để rồi những vần thơ đẹp nhất về thiên nhiên và con người Việt Bắc ra đời.

Đoạn thơ được đánh giá là tuyệt bút của bài thơ, tập trung khắc họa bức tranh tứ bình về cảnh và người Việt Bắc. Một câu nói về thiên nhiên, lại đến một câu nói về con người cứ thế hòa quyện, gắn bó khăng khít. Cảnh vật làm nền cho con người, thổi hồn vào cảnh vật tạo ra vẻ đẹp đặc trưng riêng cho không gian nơi đây.

Có thể thấy ngay thi sĩ tạo hình theo lối xây dựng bộ tranh tứ bình – một hình thức rất phổ biến của nghệ thuật cổ điển. Hoa và người soi chiếu cho nhau, tôn vinh lẫn nhau. Bức tranh dường như đã tái hiện trọn vẹn đầy đủ nhịp vận hành luân chuyển của thiên nhiên và con người Việt Bắc.

Và mở đầu cho đoạn thơ tứ bình là câu hỏi của người ra đi đầy ngọt ngào, mang hơi  thở của tình yêu:

“Ta về mình có nhớ ta

Ta về ta nhớ những hoa cùng người.”

Câu hỏi thực ra chỉ là cái cớ để bộc lộ nỗi niềm xao xuyến nhớ nhung phút chia li. Hỏi nhưng không cần câu trả lời, hỏi để rồi khẳng định ngay sau đó “ta nhớ những hoa cùng người”. Nhớ “hoa” là hình ảnh hoán dụ để nói về nỗi nhớ thiên nhiên bên cạnh nỗi nhớ về con người, là một phần không thể thiếu trong ký ức người ra đi. Với mật độ sử dụng đại từ “mình – ta” và điệp từ “nhớ” như nhấn mạnh nỗi nhớ đang đầy ắp trong lòng tạo ra cảm giác vấn vương đến lạ.

Khung cảnh Việt bắc mở ra trong nỗi nhớ của người ra đi là bức tranh thiên nhiên mùa đông với sự hòa phối màu sắc tuyệt vời:

“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.”

Trên cái nền xanh thẫm, bạt ngàn của rừng già là màu đỏ tươi của hoa chuối như những ngọn đuốc thắp sáng cả cánh rừng đại ngàn. Cái màu đỏ ấm nóng của hoa chuối đã đẩy lùi vẻ thâm u, trầm lắng và cái lạnh lẽo của không gian, làm cho thiên nhiên trở nên bừng sáng, ấm áp hơn. Bên cạnh đó là thấp thoáng những đốm nắng với màu vàng rất nhẹ đang phảng phất nơi đồi nương, cây rừng làm cho bức tranh mùa đông thêm phần tươi tắn. Sự pha trộn giữa màu xanh của rừng già, màu đỏ tươi của hoa chuối và màu vàng ấm áp của nắng đã tạo nên một bức họa thật thơ mộng, đầy cuốn hút thay vì sự khắc nghiệt, giá lạnh của màu xanh. 

Con người Việt Bắc hiện lên trong tư thế lao động thật khỏe khoắn, đẹp đẽ “Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”. Giữa cái hùng vĩ của núi rừng với gập ghềnh cheo leo dốc núi, những người lao động vẫn thật hiên ngang như đang làm chủ và chế ngự thiên nhiên. Với con dao đi rừng sáng loáng gài ngang lưng, với sáng vẻ lồng lộng trên đèo cao đầy nắng, tầm vóc con người như lớn lao, rắn rỏi hơn giữa núi rừng Việt Bắc. Đây cũng là tư thế của người lính trong bài “Lên Tây Bắc” mà Tố Hữu đã ngợi ca:

“Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều

Bóng dài trên đỉnh núi cheo leo

Núi không đè nổi vai vươn tới

Lá ngụy trang reo với núi đèo.”

Nếu mùa đông Việt Bắc hiện lên với hình ảnh của hoa chuối đỏ tươi thì mùa xuân về núi rừng như được khoác lên mình một chiếc áo mới, một màu trắng bạt ngàn phủ đầy không gian.

“Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.”

Cả cánh rừng Việt Bắc ngập tràn sắc trắng của hoa mơ. Màu trắng gợi lên sự tinh khôi, trong trẻo như hiện thân cho vẻ đẹp trong sáng, thuần khiết của con người nơi đây. Sự trỗi dậy mạnh mẽ của hoa mơ thể hiện sức sống mãnh liệt của thiên nhiên, nó đang bung nở, dâng sắc, tỏa hương cho cả núi rừng. Với sự lan tỏa, trải dài của màu trắng hoa mơ làm cho bức tranh thiên nhiên trở nên bừng sáng, tạo ra nét rất riêng ở Việt Bắc. Và nhà thơ Tố Hữu đã “hơn một lần” nhắc đến sắc trắng của hoa mơ:

“Ôi sáng xuân nay xuân 41

Trắng rừng biên giới nở hoa mơ.”

                                                                                                                                         (“Theo chân Bác”)

Hay trong bài “Hoan hô chiến sĩ Điện Biên”, nhà thơ cũng từng viết:

“Mừng Thanh, Hồng Cúm, Him Lam

Hoa mơ lại trắng, vườn cam lại vàng.”

Trên cái nền của thiên nhiên mùa xuân, con người hiện ra trong hình ảnh “đan nón chuốt từng sợi giang”, một công việc đòi hỏi sự cần mẫn, chăm chỉ, tài hoa và khéo léo đến từng chi tiết. Bao nhiêu sản phẩm tinh tế đã được tạo ra từ bàn tay lao động thô sơ mà thật kì công ấy. Sau này, nhà thơ Y Phương cũng đã nói đến vẻ đẹp đó của “người đồng mình” trong bài thơ “Nói với con”

“Người đồng mình thương lắm con ơi

Đan lờ cài nan hoa, vách nhà ken câu hát.”

Trong bức tranh tứ bình về Việt Bắc, nhiều người cho rằng mùa hè đẹp nhất bởi nó có sự kết hợp cả hình ảnh và âm thanh, thỏa mãn thị giác và thính giác, đẹp bởi sự hòa quyện giữa vẻ đẹp cổ điển và hiện đại, tạo ra một chuỗi vận động liên hoàn:

“Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình.”

Âm thanh của tiếng ve làm không gian ngày hè trở nên rộn rã, náo nức, vui tươi. Tiếng ve kêu gọi mùa hè rất tinh tế, không chỉ thể hiện được nhịp bước của thời gian từ xuân sang hè mà còn diễn tả được sự chuyển đổi màu sắc. Trong thơ ca, cũng không hiếm những nhà thơ nói lên sự vận động của thời gian qua sự thay đổi của màu sắc. Đó là Xuân Diệu trong bài “Đây mùa thu tới”

“Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh”

Hay đó là Nguyễn Bính trong bài “Tương tư”

“Ngày qua ngày lại qua ngày

Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng.”

Nếu từ “rũa” thể hiện quá trình xâm lấn dần, sắc đỏ đang bào mòn dần màu xanh, từ “nhuộm” diễn tả quá trình ấy đã hoàn tất, thì từ “đổ” lại chứng tỏ một sự vận động nhanh chóng, đồng loạt từ màu xanh sang vàng. Cả cánh rừng Việt Bắc trở nên lung linh, lộng lẫy bởi cái màu vàng trải dài, kiêu sa đầy bắt mắt.

Hình ảnh cô gái “hái măng một mình” là linh hồn của bức tranh mùa hè. Cách gọi “cô em gái” nghe thật thân thương, gần gũi, tình mến như anh em ruột thịt trong gia đình. Cô gái ấy đang “một mình” miệt mài trong lao động “hái măng”, âm thầm, lặng lẽ góp sức mình cho cuộc kháng chiến từ những điều bình dị, nhỏ bé. Đó là những con người bình dị mà cao cả “Không ai nhớ mặt đặt tên. Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”. (Nguyễn Khoa Điềm)

Khép lại bức tranh tứ bình là khung cảnh mùa thu tươi đẹp:

“Rừng thu trăng rọi hòa bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”

Không phải ngẫu nhiên mà bức tranh tứ bình trong thơ Tố Hữu lại phá lệ trật tự thông thường, không đi theo trình tự thời gian qua bốn mùa xuân, hạ thu đông mà lại mở ra với mùa đông và khép lại bằng mùa thu. Đây được xem như bản tổng kết bằng thơ trong chín năm kháng chiến, mùa đông là hiện thân cho quá khứ, thời gian mở đầu cuộc kháng chiến với bao gian khó, thử thách và mùa thu là thời điểm hiện tại, thời điểm chiến thắng của cuộc kháng chiến oanh liệt và vĩ đại.

Mùa thu được thể hiện với vầng trăng tròn vành vạnh, với ánh sáng dịu mát gợi lên vẻ thanh bình, yên ả. Đó là ánh trăng của hòa bình, của niềm vui, của niềm hạnh phúc lan tỏa. Ánh trăng cũng như hiểu lòng người, đang hòa mình vào niềm vui chiến thắng của con người. 

Mùa thu ngọt ngào, trọn vẹn bởi “tiếng hát ân tình thủy chung” trong cảm xúc “nhớ ai” của người ra đi. “Tiếng ai” là lời đồng vọng của con người Việt Bắc, những con người khổ cực lam lũ song không quên đi nghĩa tình gắn bó, sống anh dũng không chút sờn lòng nản chí. Tiếng hát cất lên vang vọng giữa núi rừng dưới ánh trăng thanh bình thơ mộng như tô đậm cảm xúc vui tươi, hồ hởi, niềm hạnh phúc hân hoan của con người trong ngày chiến thắng. 

Đoạn thơ đã tái hiện một bức tranh tứ bình rất đặc trưng của Việt Bắc. Mùa nào cũng đẹp cũng mang một diện mạo riêng, vừa đậm đà tính dân tộc song cũng rất mới mẻ, hiện đại. Bên cạnh đó là vẻ đẹp của những con người nơi đây, tuy nghèo khổ nhưng cần cù, chịu khó, sống nghĩa tình, thủy chung, son sắt với Cách mạng. 

d) Những chiến công vang dội

“Nhớ khi giặc đến giặc lùng

Nhớ từ Cao Lạng, nhớ sang Nhị Hà.”

Sau nỗi nhớ về thiên nhiên và con người Việt Bắc , đoạn thơ tiếp theo đưa người đọc vào khung cảnh Việt Bắc trong kháng chiến với không gian rộng lớn, những hoạt động sôi nổi và những chiến công vang dội.

“Nhớ khi giặc đến giặc lùng

Rừng cây núi đá ta cùng đánh tây”

Căn cứ địa Việt bắc hiện lên là một khung cảnh rộng lớn với “rừng cây núi đá”, với mênh mông bốn mặt sương mù và cả đất trời cũng trở thành “chiến khu một lòng”. Từ “ta” được dùng một cách sáng tạo bao hàm nghĩa “chúng ta”, vừa để chỉ những người dân Việt Bắc, những người kháng chiến và để bao hàm cả thiên nhiên, đất trời. Con người và thiên nhiên đều “cùng đánh tây”, tạo ra tinh thần đoàn kết, gắn bó và một không gian rộng lớn mang tầm vóc sử thi. Cả đất nước như đang đứng lên cùng dẹp tan âm mưu xâm lược, hình ảnh đấy nước ấy đã được Nguyễn Đình Thi diễn tả qua ý thơ:

“Súng nổ rung trời giận dữ

Người lên như nước vỡ bờ

Nước Việt Nam từ máu lửa

Rũ bùn đứng dậy sáng lòa.”

Việt bắc hiện ra với những hoạt động sôi nổi, những hình ảnh hào hùng, những âm thanh dồn dập của cuộc đánh tranh nhân dân, toàn dân tham gia đánh giặc, đánh giặc bằng mọi thứ có trong tay.

“Núi giăng thành lũy sắt dày

Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù

Mênh mông bốn mặt sương mù

Đất trời ta cả chiến khu một lòng.”

Trong cuộc đấu tranh ở Việt Bắc, thiên nhiên cũng trở thành những anh hùng. Rừng cây núi đá cùng đánh Tây, “rừng che bộ đội, rừng vây quân thù”. Núi đá thì giăng thành lũy sắt dày tạo ra một chiến địa thiên la địa võng vô cùng khủng khiếp nhằm uy hiếp kẻ thù. Núi rừng đã trở thành những người bạn chiến đấu của con người, sát cánh cùng những người Cách mạng và nhân dân Việt Bắc trong cuộc chiến trường kì, gian khổ nhưng nhất định thắng lợi.

Không chỉ nhớ về những hoạt động sôi nổi trong kháng chiến, người ra đi còn nhớ đến những địa danh ghi dấu ấn với những chiến công vẻ vang chói lọi.

“Ai về ai có nhớ không

Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng

Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng

Nhớ từ Cao Lạng, nhớ sang Nhị Hà.”

Từ “nhớ” liên tiếp điệp lại trong các dòng thơ đã cho thấy nỗi nhớ như hòa quyện với niềm vui chiến thắng, niềm hạnh phúc hân hoan. Những địa danh liên tiếp gắn liền với những trận đánh lịch sử, những chiến công vang dội, tuy trải qua những nhọc nhằn, mất mát, hi sinh nhưng cũng đầy vinh quang.  Nhịp thơ nhanh, dồn dập như tái hiện không khí hào hùng của cuộc chiến. Đó là những dấu ấn không thể quên về một thời kì oanh liệt của lịch sử dân tộc.

e) Bức tranh ra trận

“Những đường Việt Bắc của ta

Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.”

“Văn học là tấm gương phản chiếu thời đại” (Standal). Mỗi tác phẩm văn học luôn phập phồng hơi thở thời đại mà nó ra đời. Và đến với “Việt Bắc” của Tố Hữu ta như được trở lại với không khí nóng bỏng của cuộc kháng chiến chống Pháp oanh liệt và vĩ đại, một thời kì hào hùng, mang vẻ đẹp sử thi song cũng rất lãng mạn với:

“Chín năm làm một Điện Biên

Nên vành hoa đỏ, nên thiên sử vàng”

Trong hoài niệm của người ra đi, hình ảnh Việt Bắc trong kháng chiến hiện ra là một bức tranh rộng lớn với những con đường hành quân ra trận, và những bức chân “rầm rập”  trong “những đêm dài hành quân nung nấu”:

“Nhưng đường Việt Bắc của ta

Đêm đêm rầm rập như là đất rung”

Hình ảnh những con đường “Việt Bắc của ta” được nhắc đến trong niềm tự hào và niềm vui được làm chủ đất nước. Ta đã từng bắt gặp cảm xúc này trong bài thơ “Đất nước” của Nguyễn Đình Thi:

“Trời xanh đây là của chúng ta

Núi rừng đây là của chúng ta

Những cánh đồng thơm mát

Những ngả đường bát ngát

Những dòng sông chảy nặng phù sa.”

Trên những con đường thênh thang rộng mở ấy là những đoàn quân nối đuôi nhau ra trận, bước chân “rầm rập” làm rung chuyển cả đất trời. Với việc sử dụng từ láy “rầm rập”, không chỉ gợi ra âm thanh của những bước chân dồn dập, hối hả, khẩn trương ra trận mà còn giúp người đọc hình dung ra sức mạnh của đoàn quân đi trong đêm. Đoàn quân ấy được ví như những người khổng lồ đội trời đạp đất làm rung chuyển cả núi rừng, mang sức mạnh kì vĩ, lớn lao làm nên những chiến công rung chuyển.

Trung tâm của bức tranh Việt Bắc trong kháng chiến là hình ảnh của quân đội nhân dân Việt Nam mang vẻ đẹp, tầm vóc sử thi, vũ trụ.

“Quân đi điệp điệp trùng trùng

Ánh sao đầu súng, bạn cùng mũ nan”

Hai từ láy “điệp điệp”, “trùng trùng” đã tạo ra tính nhạc cho lời thơ, gợi lên âm thanh tấp nập, đầy quyết tâm của những bước chân hành quân. Đồng thời còn thể hiện binh lực hùng hậu, đông đảo, sức mạnh phi thường của quân đội ta. Từng đoàn quân nối nhau ra trận với khí thế mạnh mẽ như vũ bão làm nên vẻ đẹp kì vĩ, oai phong, lẫm liệt khiến cho kẻ thù phải khiếp sợ.

Một hình ảnh thật đẹp đã xuất hiện trong thơ Tố Hữu, đó là “ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan”. Chính Hữu trong bài “Đồng chí” cũng đã viết “Đầu súng trăng treo”. hay Nguyễn Đình Thi trong bài “Nhớ” lại tha thiết hơn:

“Ngôi sao nhớ ai mà sao lấp lánh 

Soi sáng đường chiến sĩ giữa đèo mây.”

Khác với hình ảnh trăng sao trong thơ Chính Hữu và Nguyễn Đình Thi, hình ảnh “ánh sao đầu súng” của Tố Hữu gợi lên nhiều liên tưởng hơn cho người đọc. Sự kết nối giữa “ánh sao” và “đầu súng” là sự hòa quyện giữa hai yếu tố hiện thực và lãng mạn, giữa nét thi vị trữ tình với sự dữ dội, khốc liệt của chiến trường. Đồng thời hình ảnh “ánh sao” còn là biểu tượng cho lí tưởng Cách mạng cao đẹp mà người chiến sĩ đang hướng đến trên con đường ra trận. Đó cũng là ánh sáng của độc lập, của niềm tin và hi vọng vào tương lai của Cách mạng. Điều này đã được nhà thơ Vũ Cao nói đến trong bài thơ “Núi đôi”:

“Anh đi bộ đội sao trên mũ

Mãi mãi là sao sáng dẫn đường

Em sẽ là hoa trên đỉnh núi

Bốn mùa thơm mãi cánh hoa thơm.”

Trong cuộc chiến tranh toàn dân, toàn quân, không chỉ có hình ảnh những đoàn quân ra trận, mà là những người dân công cùng tham gia chiến đấu với bộ đội:

“Dân công đỏ đuốc từng đoàn

Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan.”

Đây là hình ảnh rất quen thuộc trong cuộc kháng chiến chung của dân tộc. Nhưng đoàn dân công tiếp lương tải đạn hiện lên với sự đông đảo và tinh thần hăng say, với ý thức trách nhiệm và sức mạnh lớn lao. Họ bất chấp mọi gian khổ, không quản ngày đêm, dưới ánh sáng của những ngọn đuốc họ vẫn lao động trong không khí vui tươi như ngày hội. Và Cách mạng thực sự đã trở thành ngày hội của quần chúng nhân dân.

Sức mạnh của đoàn dân quân được tác giả thể hiện một cách thần thoại hóa với “bước chân nát đá muôn tàn lửa bay”. Đó là bước chân của những người đội đá vá trời khiến cho mặt đất rung chuyển. Hình ảnh họ thật hào hùng, kì vĩ, hiện thân cho sức mạnh dân tộc mạnh mẽ và phi thường. Những con người nhỏ bé mà vĩ đại, luôn vượt lên trên mọi khó khăn, có thể chiến thắng mọi gian khổ thử thách.

Không chỉ tái hiện một bức tranh Việt Bắc trong kháng chiến mang đậm tính lịch sử thi với những con người mang tầm vóc lớn lao đại diện cho sức mạnh dân tộc. Đoạn thơ còn tràn đầy tinh thần lạc quan, ngời sáng niềm tin ở tương lai.

“Nghìn đêm thăm thẳm sương dày

Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.”

Thực tế chiến đấu vô cùng khắc nghiệt với “thăm thẳm sương dày”. Đó không chỉ là khó khăn do thiên nhiên, núi rừng hiểm trở, hoang vu với mây mù bao phủ quanh năm mà còn bởi điều kiện cuộc sống vô cùng thiếu thốn, gian khổ và sự đe dọa khủng khiếp của kẻ thù. Nhưng dường như tất cả đã bị đẩy lùi bởi “đèn pha bật sáng như ngày mai lên”. Hình ảnh so sánh đã cụ thể hóa sức lan tỏa, chiếu rọi của đèn pha như ánh sáng của ban ngày đã xua tan đi bóng tối và xé toang màn sương dày đặc. Đó là ánh sáng của “ngày mai lên”, ngày mai với hòa bình, độc lập, với niềm vui bất tận, ngày mai với bao hi vọng và quyết tâm cháy bỏng.

Những câu thơ còn lại đã tập trung thể hiện niềm vui của tác giả trước những chiến thắng oanh liệt:

“Tin vui thắng trận trăm miền

Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về

Vui từ Đồng Tháp, An Khê

Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.”

Việt Bắc đã trở thành mồ chôn Thực dân Pháp. Với những hình ảnh liệt kê và sự nối tiếp các cụm từ: vui vẻ, vui từ, vui lên,… Cùng với nhịp thơ nhanh, gấp gáp đã thể hiện không khí náo nức, say mê của quân dân Việt Bắc. Những địa danh trên khắp dải đất hình chữ S liên tiếp hiện ra trong tâm trí nhà thơ: Hòa Bình, Tây bắc, Điện Biên, Đồng Tháp, An Khê, … Với niềm vui dâng trào, rộn ràng, náo nức, dường như đây là tiếng reo vui chiến thắng, niềm say mê, náo nức ngập tràn trong lòng người trong ngày hội chiến công của đất nước.

Đoạn thơ đã tái hiện bức tranh hùng tráng về Việt Bắc trong những ngày kháng chiến lịch sử, thể hiện sức mạnh to lớn của đất nước và con người Việt Nam. Sự thành công của đoạn thơ được tạo nên từ sự hòa quyện giữa khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn, với phong cách thơ trữ tình – chính trị và giọng điệu ngọt ngào, sâu lắng. 

4. Tổng kết

4.1. Nội dung

Bài thơ “Việt Bắc” là khúc anh hùng ca và cũng là bản tình ca về Cách mạng, về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến.

4.2. Nghệ thuật

– Vận dụng thành công thể thơ lục bát truyền thống.

– Sử dụng sáng tạo hai đại từ “mình – ta”.

– Ngôn ngữ dân gian gần gũi với đời sống hàng ngày. Đặc biệt là phát huy được tính nhạc trong thơ bằng cách sử dụng các từ láy, thanh điệu, vần thơ.

– Sử dụng phép tiểu đối quen thuộc trong ca dao, tạo ra sự cân xứng, hài hòa, nhịp nhàng, uyển chuyển trong câu thơ. 

– Vận dụng nhuần nhuyễn phép trùng điệp của ngôn ngữ dân gian (điệp từ, điệp ngữ, điệp cấu trúc) tạo nên giọng điệu trữ tình tha thiết.

– Sử dụng nhiều biện pháp tu từ: so sánh, ẩn dụ, hoán dụ,,, làm tăng tính gợi hình, gợi cảm và tạo ra nhiều liên tưởng cho người đọc. 

5. Những nhận định hay về Tố Hữu và “Việt Bắc”

Văn hào Êrenbua có nói: “Lòng yêu nước ban đầu là lòng yêu những vật tầm thường nhất, yêu cái cây trồng ở trước nhà, yêu cái phố nhỏ đổ ra bờ sông, yêu vị thơm chua chát của trái lê mùa thu, hay mùa cỏ thảo nguyên có hơi rượu mạnh. Chiến tranh khiến cho mỗi công dân Xô Viết nhận ra vẻ thanh tú của chốn quê hương. Người vùng Bắc nghĩ đến những cánh rừng bên dòng sông Vina hay miền Xucono thân cây mọc là là mặt nước, nghĩ đến những đêm tháng sáu sáng hồng và tiếng cô nàng gọi đùa người yêu. Người xứ Ưcơren nhớ bóng thùy dương tư lự bên đường”. Vậy đó, lòng yêu nước có mặt ở khắp nơi, len lỏi vào từng ngõ ngách, đậm đà ở từng dân tộc, đất nước và thấm nhuần qua những trang thơ. Đất nước Việt Nam trải qua bao biến động, thăng trầm, những năm tháng chiến tranh nhưng cũng rất hào hùng của dân tộc đã đi vào bao vần thơ đẹp, đặc biệt là thơ trữ tình chính trị của Tố Hữu, mà tiêu biểu là bài Việt Bắc. 

Nhà thơ Tố Hữu, từ bài thơ đầu tiên viết ở tuổi mười tám, “Từ ấy” đã như một tuyên ngôn sống, tuyên ngôn thơ, tuyên ngôn Cách mạng theo trọn suốt đời ông:

“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ

Mặt trời chân lí chói qua tim

Hồn tôi là một vườn hoa lá

Rất đậm hương và rộn tiếng chim.”

Cho đến khi từ giã cõi trần, nhà thơ Tố Hữu đã đi trọn 64 năm thơ ca Cách mạng. Thơ Tố Hữu là thơ mới, hiện đại, sâu sắc, truyền tải những tình cảm lớn của nhân dân trong suốt hành trình lịch sử của Đảng, của Dân tộc.

“64 năm qua, biết bao thế hệ chiến sĩ Việt Nam, từ các nhà trí thức đến người dân lao động quê mùa chưa biết chữ, nhiều người thuộc lòng thơ Tố Hữu, đã ngâm ngợi thơ Tố Hữu trong những lúc chiến đấu cam go nhất, đã hát về thơ Tố Hữu những lúc mừng công, mừng chiến thắng.” (Ngô Minh). Tại sao thơ Tố Hữu có sức truyền bá rộng rãi, lâu bền như vậy? Vì “thơ Tố Hữu là tiếng nói đồng tình, đồng lòng, đồng chí” (nhà phê bình Nguyễn Văn Hạnh) cả về nội dung lẫn hình thức nghệ thuật. Nhà thơ đặc biệt sử dụng rất thành công ngôn ngữ vè, ca dao truyền thống thơ lục bát, đồng dao của dân tộc để tạo nên những bài ca bất tuyệt, ai cũng thuộc, ai cũng nhớ.

Sinh thời, nhà thơ Xuân Diệu có lần nhận xét rất đúng rằng: “Thơ Tố Hữu thành ca dao”. Đó một lời khen chính xác và sang trọng. Đọc thơ Tố Hữu, ở bài nào ta cũng gặp hình ảnh, ngôn ngữ thấm đẫm chất ca dao, dân ca nên rất gần gũi với mọi tầng lớp công chúng độc giả:

“Rét Thái Nguyên rét về Yên Thế

Gió qua rừng Đèo khế gió sang.”

                                                                                                                                            (Phá đường)

Đó chính là sức mạnh của ngôn ngữ thơ ca mang tính đại chúng cao. Một lần, khi đã tuổi bảy mươi, nhà thơ Tố Hữu tâm sự với người cháu là nhà thơ Phùng Quán rằng: “Cậu ao ước còn đủ sức khỏe, đạp một chiếc xe đạp về trong quê mình, sống lại kỷ niệm thời thơ ấu, thời hoạt động sục sôi của tuổi thanh niên, rồi đặt những bài vè như Mẹ Suốt, Ba mươi năm đời ta có Đảng, Nước non ngàn dặm… tìm đến nơi có đồng bào, bà con tụ tập, đọc lên cho bà con nghe… Cậu mong muốn được làm người hát rong của nhân dân.” Đó là mong muốn rất dân dã mà vô cùng sang trọng của  một nhà thơ đã gắn bó đời thơ của mình với Cách mạng, với cuộc chiến đấu giải phóng nhân dân, giải phóng dân tộc. “Người hát rong của nhân dân” – danh hiệu cao quý đó không phải nhà thơ nào cũng có được.

Nhận định về Tố Hữu:

– “Thơ đi giữa nhạc và ý. Rơi vào cái vực ý thì thơ sẽ sâu, nhưng rất dễ khô khan. Rơi vào cái vực nhạc, thì thơ dễ làm đắm say người, nhưng cũng dễ nông cạn. Tố Hữu đã giữ được thế quân bình giữa hai vực thu hút ấy. Thơ của anh vừa ru người trong nhạc, vừa thức người bằng ý.” (Chế Lan Viên)

– “Sức mạnh của thơ Tố Hữu trong những ngày đen tối ấy chính là vì nó nói với trái tim, chính là bởi người Cách mạng ấy là một thi sĩ chính cống, thật sự.” (Xuân Diệu)

– “Tố Hữu không tô vẽ lên nhân vật quần chúng những nét sơn hào nhoáng, giả tạo. Tình cảm của nhân vật thơ anh biểu hiện lên bản chất giai cấp, từ đời sống thực. Người bộ đội chiếm địa vị quan trọng trong tập thơ “Việt Bắc”, chính là người nông dân nghèo khổ.” (Hoàng Trung Thông)

– “Với Tố Hữu, thơ là vũ khí đấu tranh Cách mạng. Đó chính là đặc sắc cũng là bí quyết độc đáo của Tố Hữu trong thơ.” (Đặng Thai Mai)

– “Nhà thi sĩ ấy tự muốn mình là tiếng nói của dân tộc mình. Vậy thì dân tộc ấy có năng khiếu thông qua nhà thi sĩ. Các dân tộc hiện đại, đã công nghiệp hóa rồi, đã bị san phẳng bởi những phương tiện tuyên truyền, không còn có một năng khiếu về hình tượng như thế nữa, không còn suối nguồn của bản thân mình nữa. Nhưng Tố Hữu đắm mình trong dân tộc của mình, đồng thời là một thi sĩ độc đáo, một nhà sáng tạo ra các hình thể. Người ta càng cảm thấy điều đó rõ hơn khi anh nói một cách rất hay về thơ.” (Lời tựa thơ “Máu và hoa”, xuất bản ở Pháp, năm 1975, Pierre Emmanuel)

Nhận định về tác phẩm “Việt Bắc”:

– “Việt Bắc là đỉnh thơ cao nhất mà Tố Hữu đã bước lên.” (Xuân Diệu)

– “Với Việt Bắc, hồn thơ cũng như nghề thơ của Tố Hữu chín rộ. Không phải là một cây bút trong tay Tố Hữu nữa mà là nhiều ngọn bút nở cùng một lúc, bút tả tình, bút tả cảnh, bút tả người. Người ta thấy văn chương Cách mạng chí nghĩa, chí tình, cái văn chương nên thơ nên nhạc.”

6. Một vài phương diện phong cách nghệ thuật của Tố Hữu

Trong lúc trên thi đàn các nhà thơ hầu như còn xa lạ với phong trào quần chúng sôi nổi, những năm 1936 – 1939, thơ Tố Hữu ra đời đã đem lại cho thơ ca Việt Nam một cái gì mới lạ, khác thường.

Không phải thơ Tố Hữu cao siêu, đẽo gọt câu chữ đến sắc sảo mà vì thơ Tố Hữu chứa đựng một ý thức Cách mạng rõ rệt và một tinh thần chiến đấu mãnh liệt. Ý thức Cách mạng ấy làm cho những độc giả được phong trào đương thời soi sáng phải chú ý đến mà còn hấp dẫn, lôi cuốn họ như một sức mạnh riêng. Tính chất chiến đấu trong thơ Tố Hữu là nguồn gốc, là sức mạnh lôi cuốn không chỉ độc giả đương thời mà còn có giá trị và ý nghĩa sâu sắc đến độc giả mọi thế hệ. Nó nhắc người ta nhớ lại cái tráng khí trong văn thơ Đông Kinh nghĩa thục hoặc cái nhiệt tình trong Phan Bội Châu, nhưng nó có ý thức hơn, nó giàu chất trẻ hơn, nên nó mãnh liệt hơn, vì thế thơ Tố Hữu mãi mãi là niềm đam mê cho những tâm hồn yêu thích thơ ca.

Phần nghệ thuật trong thơ Tố Hữu cũng có nhiều nét đặc sắc, thơ dẫu nhìn thẳng vào thực tế để tâm hồn rung cảm, rồi nói lên cảm xúc ấy bằng những lời tự nhiên, không kiểu cách, đó là nghệ thuật của Tố Hữu, vì thế nhiều khi chúng ta không còn cảm thấy kỹ thuật nữa mà chỉ thấy có cảm xúc, có những tiếng reo, những khẩu hiệu, những nhịp tim đẫm máu của người chiến sĩ hăng hái đấu tranh hay xót thương thầm lặng. Điều này góp phần làm nên cái duyên riêng cho thơ Tố Hữu, và hấp dẫn lý thú cho người khám phá tác phẩm.

Một điều quan trọng nữa làm cho thơ Tố Hữu trở nên đặc sắc và hấp dẫn là ở phong cách nghệ thuật của ông. Đến với thơ Tố Hữu chúng ta đến với một giọng thơ ấm áp, vừa hùng tráng lại vừa gần gũi thiết tha.

Phong cách thơ Tố Hữu đưa đến một hồn thơ đẹp đẽ sâu lắng. Về nội dung nó mang tính trữ tình chính trị sâu sắc, thơ khai thác cảm hứng từ đời sống chính trị của đất nước, hướng tới cái ta chung với lẽ sống lớn, tình cảm lớn, niềm vui lớn của con người Cách mạng của cả dân tộc. 

Thơ Tố Hữu mang đậm tính sử thi, coi những sự kiện chính trị lớn của đất nước là đối tượng thể hiện chủ yếu, luôn đề cập đến những vấn đề có ý nghĩa lịch sử và tính chất toàn dân.

Đặc biệt giọng thơ mang tính chất tâm tình rất tự nhiên đằm thắm, chân thành. Nghệ thuật biểu hiện trong thơ mang tính dân tộc đậm đà; Tố Hữu còn rất thành công khi vận dụng thể thơ truyền thống của dân tộc với một ngôn ngữ vừa dân dã quen thuộc lại vừa giàu nhạc điệu, giàu tính tạo hình độc đáo. Tất cả làm nên một phong cách thơ Tố Hữu xuất sắc của thơ ca Cách mạng. 

Trong hành trình thơ ca của mình Tố Hữu đã có một số lượng tác phẩm khá lớn, những tập thơ cũng là những chặng đường hoạt động của chính nhà thơ như “Từ ấy” (1937 – 1946), Việt Bắc (1946 – 1954), Gió lộng (1955 – 1961), Ra trận (1962 – 1971), Máu và hoa (1972 – 1977) nhưng tập thơ thể hiện rõ nét cho phong cách thơ Tố Hữu phải kể đến Việt Bắc (1946 – 1954).

Việt Bắc là tiếng ca hùng tráng, thiết tha về cuộc kháng chiến chống Pháp và ở đó đã kết tinh một cách đặc sắc những nội dung nghệ thuật giá trị làm nên một phong cách nghệ thuật thơ Tố Hữu độc đáo, mới mẻ, bình dị, sâu lắng đem lại một nhã thú văn chương suốt nhiều thế hệ. 

7. Lí luận văn học về phong cách thơ Tố Hữu

Phong cách được xem là yếu tố thể hiện tài năng nghệ thuật của người nghệ sĩ, vì thế đụng chạm đến phong cách nghệ thuật của nhà thơ, nhà văn nói chung luôn có rất nhiều công trình nghiên cứu công phu. Để thấm nhuần phong cách nghệ thuật của mỗi người nghệ sĩ, ta cần nhìn nhận phong cách trong đời sống của họ suốt chiều dài năm tháng họ đã “góp hương” cho đời. Nói về đặc sắc nghệ thuật trong thơ Tố Hữu, ta bắt đầu tìm hiểu từ “những ngày xưa”.

Tố Hữu – Nguyễn Kim Thành vốn xuất thân trong một gia đình nhà Nho nghèo, cha Tố Hữu là người yêu thích thơ văn vậy nên Tố Hữu tập thơ thơ từ hồi 10 tuổi, mẹ là người thích sưu tầm ca dao, dân ca.

Cái hồn của ca dao tục ngữ đã thấm sâu vào những sáng tác của Tố Hữu, nuôi dưỡng hồn thơ Tố Hữu. Tố Hữu cũng là người con của xứ Huế thơ mộng làm say đắm lòng người, Huế còn là vùng đất giàu truyền thống văn hóa, văn hóa dân gian với những điệu hò, câu hát trữ tình ngọt ngào, sâu lắng, văn hóa cung đình.

Quê hương và gia đình đã tạo điều kiện cho tài năng thơ ca của Tố Hữu phát triển. Đó chính là nền móng đầu tiên cho một phong cách thơ tuyệt vời về sau này.

Tố Hữu tham gia phong trào Cách mạng từ sớm (sớm gặp gỡ và giác ngộ lý tưởng, kể từ đó hoàn toàn hiến dâng đời mình cho sự nghiệp Cách mạng). Sự thống nhất giữa con người chính trị và con người nhà thơ. Sự nghiệp thơ ca gắn liền với sự nghiệp Cách mạng, trở thành một bộ phận của sự nghiệp Cách mạng. Tố Hữu đã từng khẳng định:

“Đời cách mạng từ khi tôi đã hiểu

Dấn thân vô là phải chịu tù đày

Là gươm kề cổ súng kề tai

Là thân sống chỉ coi còn một nửa.”

Tất cả đặc điểm quê hương và gia đình, cuộc đời hoạt động đã ảnh hưởng đến thơ ca và phong cách nghệ thuật của Tố Hữu.

Việt Bắc (1946 – 1954) gồm những bài thơ làm từ Cách mạng tháng Tám đến tháng 10 năm 1954. Chủ đề chung của tập thơ là toàn dân đoàn kết, yêu thương nhau, gắn bó cùng vượt qua gian khó, kháng chiến đến thành công. Ở đây ta thấy vẻ đẹp trung hậu của con người Việt Nam thuộc mọi tầng lớp nhân dân lao động.

Việt Bắc thủ đô kháng chiến, với “Ngọn cờ đỏ thắm lồng cửa hang”. Tập thơ có những bài nổi tiếng trong ký ức của hàng triệu người đọc, như Phá đường (1848), Lượm (1949), Sáng tháng năm (1951), Ta đi tới (8/1954), Việt bắc (1954)… Nghệ thuật thơ Tố Hữu trở nên già dặn, tính chất sôi nổi của tuổi trẻ trong “Từ ấy” đã chuyển thành sự chín chắn hào hùng trong “Việt Bắc”. Mỗi bài ở Việt Bắc là một khám phá mới, vừa như một khúc tâm tình như một bản hợp xướng hùng tráng. 

“Việt Bắc” chính vì vậy đã kết tinh một cách sâu sắc những đặc điểm phong cách nghệ thuật của Tố Hữu. “Việt Bắc” vừa mang tính trữ tình chính trị sâu sắc, vừa mang đậm tính sử thi, đặc biệt giọng thơ của “Việt Bắc” mang tính chất tâm tình rất tự nhiên đằm thắm, chân thành. Nghệ thuật biểu hiện trong thơ mang tính dân tộc đậm đà; Việt Bắc còn rất thành công khi vận dụng thể thơ truyền thống của dân tộc với một ngôn ngữ vừa dân dã vừa quen thuộc lại vừa giàu nhạc điệu, giàu tính tạo hình độc đáo, tiêu biểu cho phong cách thơ Tố Hữu.

Thơ đậm chất trữ tình chính trị rất sâu sắc, thơ khai thác cảm hứng từ đời sống chính trị của đất nước, hướng tới cái ta chung với lẽ sống, tình cảm lớn, niềm vui lớn của con người cách mạng của cả dân tộc. 

Tố Hữu không đi sâu vào cuộc sống và những tình cảm riêng tư mang tính chất tiêu biểu phổ biến của con người Cách mạng, đó là tình yêu lý tưởng, tình cảm kính yêu lãnh tụ, tình cảm đồng bào đồng chí,… Niềm vui trong thơ không nhỏ bé, tầm thường mà là niềm vui lớn, sôi nổi hân hoan nhất và cũng rực rỡ nhất, tươi sáng nhất. 

Thơ Tố Hữu mang đậm tính lịch sử, coi những sự kiện chính trị lớn của đất nước là đối tượng thể hiện chủ yếu, luôn đề cập đến những vấn đề có ý nghĩa lịch sử và tính chất toàn dân. Nhà thơ ít chú ý tới những diễn biến bình thường của đời sống mà tập trung khắc họa bối cảnh rộng lớn, sự kiện quan trọng tác động mạnh mẽ đến vận mệnh của dân tộc.

Những vấn đề lớn lao đó được Tố Hữu thể hiện qua một giọng thơ tâm tình rất tự nhiên đằm thắm, chân thành.

Nghệ thuật biểu hiện trong thơ mang tính dân tộc rất đậm đà, về thể thơ, Tố Hữu có tiếp thu những tinh hoa của phong trào Thơ Mới của thơ ca thế giới cổ điển và hiện đại nhưng ông đặc biệt thành công khi vận dụng thể thơ truyền thống dân tộc, những bài thơ lục bát như “Việt Bắc” mang sắc thái lục bát ca dao và lục bát cổ điển, dạt dào những âm hưởng nghĩa tình hồn thơ dân tộc. 

Ngôn ngữ thơ nhẹ nhàng luyến láy với sự phát huy cao độ tính nhạc phong phú của tiếng Việt làm cho thơ dẫu nói về những bối cảnh lớn lao của dân tộc nhưng lại dễ đi vào lòng người.

Những nhân tố tạo nên phong cách nghệ thuật của Tố Hữu:

Thời đại của nhà thơ là một thời đại có nhiều biến cố, thực dân nửa phong kiến, nhân dân lầm than, văn nghệ sĩ bối rối bế tắc: Chế Lan Viên – còn rất trẻ nhưng không hiểu sao chỉ thích thú với sự tan rữa, lạnh lẽo, cái cũ đã chết hoặc không có trong thế gian này (Điêu tàn). Xuân Diệu luôn giục lòng mình ham sống, sống vội vàng, chạy đua với thời gian nhưng cuối cùng thấy lòng mình bất lực, dửng dưng nguội lạnh. 

Cái ủy bị bạc nhược ấy bắt nguồn từ cái buồn có thực của một lớp thanh niên tiểu tư sản bị chế độ thực dân nửa phong kiến giết mòn trong kiếp sống tù túng mịt mù không tiền đồ, không lý tưởng, không tương lai.

Giữa lúc ấy người thanh niên trẻ tuổi Tố Hữu đã đón nhận ánh sáng của lý tưởng, tự nguyện đứng vào hàng ngũ của Đảng và say sưa đấu tranh cho vận mệnh dân tộc. Thơ Tố Hữu ra đời, bàn đến những vấn đề của thời sự đấu tranh, nhân sinh quan Cách mạng. Tiếng thơ này đã thực hiện một sứ mệnh cao quý giúp cho người ta biết đấu tranh, biết yêu, biết ghét biết sống, biết chết một cách xứng đáng. Tố Hữu đã thực hiện được sứ mệnh cao quý ấy. Chính vì thế mà thơ ông đậm chất trữ tình chính trị, khuynh hướng sử thi, bởi đó cũng là lẽ sống của ông, là trái tim của ông.

Như vậy, Tố Hữu là nhà thơ cùng thời với các nhà thơ mới, nhưng tác phẩm của ông đã đem lại một tiếng thơ mới mẻ, trẻ trung thấm đượm tinh thần Cách mạng và tình yêu lý tưởng.

Ngoài ra phải kể đến cội nguồn nuôi dưỡng hồn thơ đậm đà tính dân tộc, giọng thơ tâm tình ngọt nào của Tố Hữu là nhờ vào quê hương và gia đình của nhà thơ. Sinh ra ở miền quê Thừa Thiên Huế – cái nôi văn hóa dân gian, cha mẹ yêu thích văn thơ nên hồn thơ Tố Hữu được nuôi dưỡng và phát triển.

8. Phong cách nghệ thuật thơ Tố Hữu trong tập Việt Bắc

Thơ Tố Hữu đậm chất trữ tình chính trị rất sâu sắc, khai thác cảm hứng từ đời sống chính trị đất nước. 

“Việt Bắc” được khơi nguồn cảm hứng từ sự kiện chính trị lớn lao của đất nước, từ vấn đề quan trọng của thời đại mang tính sống còn của dân tộc được thể hiện bằng thể loại thơ trữ tình tha thiết. Tác phẩm đã phản ánh được bức chân dung của thời đại, bóng dáng thời đại ngả vào trang viết của Tố Hữu thật đậm nét.

Về đặc điểm khuynh hướng sử thi

Sử thi là phản ánh nội dung lớn, vấn đề của thời đại, nhân vật là những con người đại diện cho những cộng đồng, cái tôi cộng đồng.

Nếu như trong bài “Từ ấy”, cái tôi của Tố Hữu là cái tôi cá nhân băn khoăn tìm kiếm lẽ yêu đời và bắt gặp lý tưởng Cách mạng nên bộc lộ cái tôi vui sướng hân hoan. Còn cái tôi của Việt Bắc là cái tôi đại diện cho cả cộng đồng chứ không phải cái tôi cá nhân nữa, cái tôi lúc này là nhân danh cho Đảng cho thời đại là tiếng nói của thời đại và thể hiện tình cảm cao đẹp của Cách mạng.

Trong bài thơ Việt Bắc tác giả đã ca ngợi những con người Việt Nam mang trong mình những phẩm chất đẹp đẽ đại diện cho vẻ đẹp của cả cộng đồng dân tộc cũng vì thế trong tác phẩm không có những cái tên cụ thể mà thường là những hình ảnh chung cho nhiều lớp người:

“Nhớ người mẹ nắng cháy lưng

Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô.”

Và nó cô đọng kết tinh lại ở hình ảnh Bác Hồ:

“Ở đâu u ám quân thù

Nhìn lên Việt Bắc cụ Hồ sáng soi.”

Những đoạn thơ viết về Việt Bắc trong những ngày kháng chiến thật hào hùng oanh liệt, đó không chỉ là khí thế của riêng nhân dân Việt Bắc mà đó còn là không khí của thời đại của cả lịch sử dân tộc:

“Quân đi điệp điệp trùng trùng

Những đường Việt Bắc của ta

Đêm đêm rầm rập như là đất rung.”

Thơ tràn trề sức sống và chiến đấu, lạc quan tin tưởng vào chiến thắng ngay trên nền của sự gian khổ khốc liệt của những ngày tháng chiến tranh.

Trong ta đi tới mạch thơ cuồn cuộn, câu thơ ào ạt như thác chảy, như quân đội nhân dân ta tiến bước, như dân tộc ta nghìn triệu người đạp bằng tất cả để đi tới hòa bình, thống nhất, độc lập dân tộc. Nhà thơ đã mở hồn mình theo kích thước của Tổ quốc:

“Ta đi tới trên đường ta tiếp bước

Rắn như thép, vững như đồng

Đội ngũ ta trùng trùng điệp điệp

Cao như núi, dài như sông”

                                                                                                                                                                 (Ta đi tới)

Những câu thơ cũng chính là ý nghĩ của mọi người, lời mọi người muốn nói mà chưa nói ra. Vì thế thơ là cảm hứng lịch sử dân tộc, chứ không phải cảm hứng thế sự đời tư, vấn đề vận mệnh dân tộc được đặt lên hàng đầu.

Về giọng điệu tâm tình ngọt ngào

Thể hiện ở quan niệm thơ: thơ gần gũi với nhân dân, thơ bình dị, thơ mộc mạc.

Giọng điệu tâm tình, tâm sự với những tình cảm gắn bó, mật thiết. Nhà thơ đã tạo ra một cuộc đối thoại trong tưởng tượng giữa mình và ta. Cho nên toàn bộ bài thơ “Việt Bắc” là một cuộc trò chuyện ngọt ngào giữa kẻ ở và người đi bịn rịn lưu luyến chung nhau nỗi nhớ, nhân vật trữ tình đắm mình trong hoài niệm trong quá khứ tha thiết sâu lắng.

Lối xưng hô mình ta, ta mình đây là lối xưng hô của đối đáp giao duyên của tình yêu đôi lứa tạo không khí thân mật ngọt ngào.

“Mình về mình có nhớ ta

Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn.”

Tố Hữu đó sử dụng rất khéo léo những đại từ ta, mình lặp đi lặp lại tạo ra giọng điệu thân mật như một khúc ca da diết. Tước đi cái vỏ ngoài, “Việt Bắc” chính là một bài thơ lòng dặn lòng, lời thơ, tiếng thơ “Việt bắc” cứ xao xuyến ở cái hương thầm này, đồng thời khẳng định được tình cảm sâu nặng giữa mình và ta.

Giọng điệu chung của bài thơ là âm điệu ngọt ngào, êm ái trở đi trở lại nhịp nhàng như lời ru, sự trùng điệp của mình ta, ta mình diễn tả cảm xúc lưu luyến, giọng điệu trữ tình tha thiết.

Với bài “Bầm ơi”, Tố Hữu đã để lại cho người đọc những câu thơ da diết, chân thành và sâu lắng:

“Bầm ơi có rét không bầm

Heo heo gió núi, lâm thâm mưa phùn

Bầm ra ruộng cấy bầm run

Chân lội dưới bùn, tay cấy mạ non

Mạ non bầm cấy mấy đon

Ruột gan bầm lại thương con mấy lần

Mưa phùn ướt áo tứ thân

Mưa bao nhiêu hạt thương bầm bấy nhiêu.”

Những câu thơ đi vào lòng người như một dòng suối ngọt, một nguồn an ủi đầy xúc động. Lời thơ nhẹ nhàng mà đầy tình thương mến, bình dị gần gũi mà diễn tả được tình cảm cao đẹp của con người.

Năm 1954 Tố Hữu đã viết trong bài “Ta đi tới”:

“Đẹp vô cùng Tổ quốc ta ơi!

Rừng cọ, đồi chè, đồng xanh ngào ngạt

Nắng chói sông Lô, hò ơ tiếng hát

Tiếng phà rào rạt bến nước bình ca.”

Hình ảnh quê hương đất nước đi vào thơ tự nhiên giản dị mà đáng yêu biết bao. Nhà thơ đã thực sự rung động với tình cảm dân tộc, cảm hòa với người với cảnh, vì thế mà thơ mang tính tâm tình đằm thắm, chân thành tự nhiên.

Tố Hữu đã tạo ra một thứ nhạc tâm tình có cội nguồn từ chất Huế, từ quan niệm của ông về mối giao cảm giữa nhà thơ với người đọc thơ “Thơ là chuyện đồng điệu, nó là tiếng nói của một người nào đó có sự cảm thông chung dựa trên cơ sở đồng ý đồng tình…”

Tố Hữu cho ta suy nghĩ nhiều về con người với tài thơ, về hành động và sáng tác. Tố Hữu cũng cho ta suy nghĩ nhiều về tác phẩm liên quan với thời đại, với một trái tim và khối óc của Cách mạng, Tố Hữu đã để lại nhiều niềm yêu mến và lòng khâm phục cho các thế hệ người đọc của dân tộc.

Tập thơ Việt Bắc đã thể hiện một tài năng thơ ca phát triển hoàn thiện theo kháng chiến, tập thơ đạt đến một độ chín của thơ Việt Nam tạo ra được một lối đi riêng, một diện mạo riêng, một bản ngã in nét vào văn chương dân tộc. 

Với một phong cách thơ độc đáo của riêng mình, Tố Hữu đã để lại những vẻ đẹp về thơ văn và cuộc đời cho dân tộc. Đọc thơ Tố Hữu, chúng ta càng thêm yêu cuộc sống, dâng lên niềm tự hào dân tộc, đồng thời hiểu thêm và trân trọng một tấm gương nghệ thuật sáng giá của văn học nước nhà. Với Tố Hữu, thơ đã đạt tới mệnh cao quý nhất của nghệ thuật: giúp cho người ta suy nghĩ, hành động đấu tranh, giúp cho người ta biết yêu biết ghét, giúp cho người ta biết sống một cách xứng đáng, hướng đến những lý tưởng cao đẹp, cái chân thiện mĩ của cuộc đời. 

Hy vọng bài viết đã cung cấp cho quý bạn đọc những thông tin hữu ích. Trân trọng cảm ơn.